Lấy nhau từ năm 1976, một năm sau ngày hòa bình nhưng cuộc đời người phụ nữ ấy từ đó không một ngày bình yên. Từ khi lấy chồng, cô không dám mua một bộ quần áo mới cho mình. “May về là chết với ổng. Quần áo của ả ổng chặt, đốt hết. Toàn đồ người ta cho mặc lại. Khi ổng đi tù ả mới dám may quần áo”, bà Hạnh cho biết.
Mùa đông cũng như mùa hè, ngày nào tầm 3-4 giờ, bà Xuê cũng phải dậy đi chợ. Chợ xa, bà đi bộ hai tiếng đồng hồ, cứ đầu gồng đầu gánh, buôn thúng bán mẹt, còn ông chồng ở nhà uống rượu. Mỗi lần về phải có một cuốc rượu 2.000 đồng (sau này là 7.000 đồng) và lòng bò cho chồng. Không có tiền phải mượn tiền mua.
Mỗi khi có đám giỗ họ hàng, đình đám của làng, bà Xuê phải lạy lục sống chết, năn nỉ, van xin chồng cho đi. Chồng cho mới được đi. Vợ về trễ 5-10 phút, ông ta lôi cha mẹ, ông bà bên ngoại của vợ ra chửi. Chửi xa xả. Chửi rất dai.
Người chồng ấy ghen đến mù quáng, tàn độc. Đỉnh điểm của thói ghen tuông ích kỷ, mù quáng ấy là lần người vợ xin chồng cho về bên ngoại có đám giỗ. “Tôi phải xin sống xin chết ổng mới cho đi. Lần đó tôi về trễ, ổng chửi từ trong nhà rồi lao ra tát túi bụi vào mặt”, bà Xuê nhớ lại. Đó là lần đầu tiên bà bị đánh và bắt đầu cho quãng đời u ám đầy nước mắt của bà suốt hơn 30 năm sau đó.